Dự án Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) hiện được xây dựng với bố cục gồm 11 chương với 108 điều, quy định về hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư; hoạt động quản lý Nhà nước; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Luật này áp dụng đối với các bên trong hợp đồng đầu tư theo phương thức đối tác công tư, cơ quan quản lý Nhà nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Tại phiên họp, UBTVQH đã tập trung thảo luận về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án luật liên quan đến: Các quy định đối với hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT); quy mô đầu tư dự án PPP; hoạt động kiểm toán Nhà nước trong đầu tư theo phương thức PPP; lĩnh vực đầu tư dự án PPP; tính hợp hiến, hợp pháp, sự thống nhất của luật trong hệ thống pháp luật nói chung; việc điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP...
Về lĩnh vực đầu tư dự án PPP (khoản 1 Điều 5), báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Đầu tư theo phương thức PPP, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng thu hẹp lĩnh vực, chỉ tập trung đầu tư PPP ở những lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm, quan tâm đến các dự án lớn có tính liên kết vùng miền, tính lan toả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương.
Để phù hợp với thực tiễn, dự thảo Luật quy định nguyên tắc chung, chỉ rõ 5 nhóm lĩnh vực thể hiện tại Khoản 1 Điều 5 với các lý do lựa chọn các lĩnh vực này như trong bản đầy đủ của dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật. Đồng thời, nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong triển khai trên thực tế, bổ sung quy định tại Khoản 2 Điều 5 để xử lý tình huống phát sinh dự án ngoài lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 5 nhưng cần thiết, đáp ứng 4 điều kiện và có khả năng thực hiện đầu tư theo phương thức PPP, cơ quan có thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo phương thức PPP.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi với một số lĩnh vực khác, đồng thời đề nghị không quy định Khoản 2 Điều 5.
Về quy mô đầu tư dự án PPP (khoản 3 Điều 5), theo ông Vũ Hồng Thanh, sau phiên họp thứ 43 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, dự thảo Luật gửi xin ý kiến ĐBQH chuyên trách đề xuất 2 phương án. Cụ thể, phương án 1: Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP đối với từng lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 5, nhưng không thấp hơn 200 tỷ đồng. Quy định này thống nhất với định hướng thu hẹp lĩnh vực đầu tư dự án PPP như đã nêu ở trên, xác định quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP nhằm bảo đảm có sự tập trung đầu tư lớn vào các dự án PPP quan trọng cần khuyến khích, ưu tiên thu hút nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân. Đối với các dự án đầu tư tại vùng sâu, vùng xa chủ yếu thực hiện thông qua đầu tư công vì nếu đầu tư qua phương thức PPP sẽ không bảo đảm nguồn thu để duy trì việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ công cũng như khó thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư cùng Nhà nước.
Phương án 2: Chính phủ quy định chi tiết quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu của dự án PPP không thấp hơn 100 tỷ đồng đối với từng lĩnh vực như đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo dục - đào tạo, y tế... hoặc theo địa bàn như đô thị, đồng bằng, miền núi, vùng sâu vùng xa. Quy định này nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở những địa bàn khó khăn, có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội và giúp nhiều đối tượng được thụ hưởng trong khi nguồn lực đầu tư công còn hạn hẹp, không đáp ứng nhu cầu.
Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các ĐBQH chuyên trách, có 9 ý kiến nhất trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.
Về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP (Điều 19), sau phiên họp thứ 43 của UBTVQH, dự thảo Luật gửi xin ý kiến ĐBQH chuyên trách đề xuất 2 phương án. Phương án 1: Khi tổng mức đầu tư dự án PPP tăng so với tổng mức đầu tư đã được quyết định tại bước chủ trương đầu tư dự án thì phải thực hiện điều chỉnh chủ trương đầu tư vì cho rằng việc tăng tổng mức đầu tư sẽ làm thay đổi phương án tài chính cũng như hiệu quả của dự án PPP. Khi điều chỉnh báo cáo nghiên cứu khả thi cũng không được phép làm tăng tổng mức đầu tư. Quy định này nhằm quản lý chặt chẽ dự án, tránh tình trạng lách luật (cố tình lập dự án với tổng mức đầu tư thấp, sau khi được phê duyệt lại điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư), tăng trách nhiệm của cơ quan, tổ chức lập, trình dự án PPP và cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, đồng thời phù hợp với quy định tại Luật Đầu tư công.
Phương án 2: Để hạn chế việc phải điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều lần và tránh thủ tục phức tạp, kéo dài, dự thảo Luật quy định trường hợp thay đổi tăng tổng mức đầu tư từ 10% trở lên thì mới phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án PPP.
Theo báo cáo tổng hợp ý kiến các ĐBQH chuyên trách, có 7 ý kiến nhất trí phương án 1, 7 ý kiến nhất trí phương án 2.
Về hoạt động kiểm toán Nhà nước trong đầu tư theo phương thức PPP (Điều 86), theo ông Vũ Hồng Thanh, Thường trực Ủy ban Kinh tế thấy rằng cơ chế, chính sách pháp luật vừa phải bảo đảm chất lượng dịch vụ công nhưng đồng thời phải tạo điều kiện thu hút, huy động tối đa nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư vào các dự án PPP. Mặt khác, Hiến pháp và pháp luật về kiểm toán Nhà nước quy định kiểm toán Nhà nước chỉ thực hiện kiểm toán tài chính công, tài sản công.
Do đó, hướng tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động kiểm toán Nhà nước như sau: (i) Kiểm toán tuân thủ về quá trình chuẩn bị dự án, kết quả lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án PPP; (ii) kiểm toán việc sử dụng vốn Nhà nước bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ, tái định cư, hỗ trợ xây dựng công trình tạm (nếu có) quy định tại Điều 73 của Luật này, hỗ trợ xây dựng công trình, hệ thống cơ sở hạ tầng khi tách thành một dự án thành phần quy định tại điểm a khoản 5 Điều 71 của Luật này, sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này; (iii) kiểm toán hoạt động để đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trên cơ sở các chỉ số đánh giá chất lượng sản phẩm, dịch vụ của dự án PPP; (iv) khi chuyển giao cho Nhà nước, thực hiện kiểm toán toàn bộ giá trị tài sản của dự án PPP.
Đề cập đến vấn đề về vốn Nhà nước trong dự án PPP (mục 1 Chương VI), ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh, trong quá trình thảo luận, lấy ý kiến về dự án Luật, có ý kiến đề nghị bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả nợ quy định tại Luật Quản lý nợ công để thực hiện nhiệm vụ xử lý rủi ro phần giảm doanh thu thay cho việc sử dụng vốn Nhà nước, tuy nhiên việc bổ sung chức năng cho Quỹ tích lũy trả nợ chưa được đánh giá tác động chính sách kỹ lưỡng, ngoài ra chưa được Chính phủ thống nhất trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8.
Bên cạnh đó, về các quy định đối với hợp đồng BT, ông Vũ Hồng Thanh cho biết, Thường trực Uỷ ban Kinh tế đã tiếp thu, sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến dự án BT theo phương thức mới theo hướng chặt chẽ hơn tại dự thảo Luật, tạo lập cơ sở pháp lý thống nhất để điều chỉnh dự án BT nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc phát sinh trong thời gian qua, bảo đảm thống nhất với quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, pháp luật về ngân sách Nhà nước. Đồng thời, kiến nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, rà soát, kiến nghị sửa đổi, bổ sung tại các luật có liên quan nhằm minh bạch hơn nữa trong quản lý, bảo đảm xử lý được các vấn đề tiêu cực có thể xảy ra đối với việc triển khai thực hiện dự án áp dụng loại hợp đồng BT.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng hợp đồng BT về bản chất không phải là hợp đồng PPP, đề nghị không quy định trong dự thảo Luật.
Phát biểu kết thúc thảo luận về nội dung này, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị các cơ quan liên quan tiếp thu ý kiến các thành viên UBTVQH để bổ sung, hoàn thiện dự án Luật cũng như hoàn thiện báo cáo giải trình dự án luật để gửi xin ý kiến Thường vụ Quốc hội sau đó gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội trước khi trình ra Quốc hội xem xét, quyết định.
Nguyễn Hoàng